Các nghi lễ Tết trong năm của người Khơ Mú ở tỉnh Sơn La
Lượt xem: 2667
Tỉnh Sơn La có 12 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó: Thái chiếm 53,72%; Kinh 16,38%; Hmông 15,71%; Mường 7,01%; Dao 1,73%; Xinh Mun 2,14%; Khơ Mú 1,28%; Lào 0,33%; Kháng 0,83%; La Ha 0,77%; Tày 0,06%; Hoa 0,01%). Mỗi dân tộc có phong tục tập quán và bản sắc văn hóa riêng.

Ở Sơn La, người Khơ Mú cư trú tại các huyện: Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Sông Mã và Sốp Cộp. Trong đó, chủ yếu ở Sông Mã, Sốp Cộp.

          Lịch sử của người Khơ Mú gắn với truyền thuyết về vị anh hùng huyền thoại tên là Chương hay Chương Han. Theo truyền thuyết lịch sử, dân tộc Khơ Mú đã có thời kỳ phát triển hưng thịnh. Vị tù trưởng Chương Han đã tổ chức tập hợp hàng ngàn binh mã, đánh đông dẹp Bắc, chinh phạt nhiều vùng rộng lớn. Tuy là truyền thuyết nhưng Chương Han vẫn được lưu truyền trong dân gian Khơ Mú một cách sâu rộng.

Về kinh tế truyền thống: Người Khơ Mú chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy. Phương thức canh tác chính là phát nương và đốt nương làm rẫy. Cây trồng chính là lúa, ngô, sắn, khoai sọ; các loại đậu, đỗ, bầu, bí…và các loại cây khác.

Để trồng trọt đạt năng xuất cao và hiệu quả, đồng bào Khơ Mú có nông lịch riêng phù hợp với khí hậu vùng đồng bào cư trú và các loại cây trồng khác nhau. So với hệ thống lịch âm thì lịch của người Khơ Mú sớm hơn hai tháng. Trồng trọt theo quy trình: Chặt cây, đốt cây, tra hạt, làm cỏ được quy định rất cụ thể, rõ ràng.

Dân tộc Khơ Mú ít nuôi gia xúc, gia cầm. Phương thức chăn nuôi chủ yếu là chăn thả, cho ăn hai bữa, ban ngày tự đi kiếm ăn. Chăn nuôi lợn, gà, vịt chủ yếu phục vụ cúng bái trong các dịp lễ, tết, cúng ma khi có người ốm, đau, hoặc làm thịt đãi khách khi có khách đến nhà chơi.

Hiện nay, người Khơ Mú ở đây đã làm thêm nhiều ruộng nước trồng lúa và thay đổi một số cây trồng: chè, cà phê, cây ăn quả…cải tiến phương thức canh tác tăng năng xuất lao động. Người Khơ Mú nuôi nhiều gia xúc, gia cầm để phục vụ cho đời sống tâm linh, cải thiện hàng ngày.

Người Khơ Mú có tập quán tính theo lịch can, chi, cứ làm 9 ngày thì nghỉ ngày thứ 10, một tháng nghỉ 3 ngày. Tùy theo từng bản, người có công lập bản mà chọn ngày nghỉ, cũng là ngày kiêng của bản để tổ chức lễ cúng bản hàng năm.

Về nhà cửa: Người Khơ Mú ở nhà sàn. Trước đây do cuộc sống du canh, du cư, họ ở trong những ngôi nhà tạm bợ bằng tranh tre, nứa lá. Ngày nay, đồng bào có cuộc sống ổn định, làm những ngôi nhà khang trang bằng gỗ, lợp ngói, tôn hoặc fibrô xi măng. Trong ngôi nhà cũng đã có sự thay đổi về cách bài trí nhưng việc bố trí gian thờ, bàn thờ tổ tiên và nơi thực hành các lễ nghi vẫn được giữ gìn theo truyền thống. Trong ngôi nhà truyền thống của người Khơ Mú có 2 bếp: một bếp ở giữa nhà để nấu nướng hàng ngày; 1 bếp ở gian thờ (đầu hồi nhà) để đồ xôi hàng ngày và làm lễ cúng. Gian đầu tiên cũng là gian thiêng để cúng nhà và cúng cơm mới.

Về nghề thủ công truyền thống: Người Khơ Mú có nghề đan lát mây tre phát triển, kỹ thuật tinh xảo, độ thẩm mỹ cao, các dân tộc láng giềng rất ưa thích, ngoài để phục vụ sinh hoạt hàng ngày thì đã từ lâu các sản phẩm mây tre đan đã được người Khơ Mú trao đổi với người Thái để lấy lương thực, vải, quần áo. Các nghề thủ công truyền thống khác như: dệt, rèn, mộc…chưa phát triển.

Về dòng họ: Đây là nét văn hóa đặc biệt của người Khơ Mú. Các dòng họ của người Khơ Mú thường mang tên các loài cây, thú, chim: con hổ, cầy, các loài chim, cây dương xỉ…Thông thường các dòng họ đều có truyền thuyết về  dòng họ của mình và kiêng ăn thịt những con vật đó: Dòng họ Mòng (Tmoong) kiêng ăn thịt con chồn, cầy hương; dòng họ Quàng (Rvai) kiêng ăn thịt hổ; dòng họ Pít kiêng ăn thịt chim sẻ; dòng họ Cút (Tvạ) kiêng ăn cây dương xỉ…hiện nay, người Khơ Mú ở Sốp Cộp vẫn mang các dòng họ truyền thống: Quàng, Cút, Pít, Mòng…

Về tiếng nói: Người Khơ Mú có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, ngữ hệ Nam Á, hiện nay đa số người Khơ Mú vẫn sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc. Ngoài ra, họ còn sử dụng thành thạo tiếng Thái, Lào, Mông, Kinh.

Về trang phục: Do nghề dệt kém phát triển nên đã từ rất lâu, người Khơ Mú dùng lâm thổ sản, đồ đan để đổi lấy vải của người Thái hoặc người Lào, tùy vào nơi họ cư trú để mặc. Tuy nhiên, để phù hợp với người mặc và truyền thống dân tộc nên cúng có một số khác biệt, chủ yếu là trang phục phụ nữ. Trang phục phụ nữ Khơ Mú vùng Sốp Cộp có nét tương đồng với trang phục phụ nữ Lào: Váy giống như váy Lào, dài đến ngang bắp chân, có táp miếng vải thổ cẩm chạy ngang thân váy, áo ngắn có viền các loại vải, chỉ màu theo các đường may, gấu, cổ, tay áo, đặc biệt là bộ cúc áo bằng bạc có hình chữ nhật tiết diện 4x6cm gồm 4 chiếc, đính thêm các đồng bạc theo nẹp áo, hiện nay bộ cúc này rất ít người còn giữ, chủ yếu dùng cúc bạc của người Thái (mák pém) và các đồng bạc đính lên áo. Chiếc khăn dài khoảng 2 sải tay, rộng 40cm, bằng vải sợi bông nhuộm chàm, hai đầu có thêu hoa văn đơn giản bằng chỉ màu, khi dùng thường gấp làm 4 theo chiều dọc và quấn gọn gàng lên đầu. Phụ nữ Khơ Mú dùng nhiều đồ trang sức bằng bạc: vòng tay, vòng chân, vòng cổ, nhẫn, châm cài đầu…Phụ nữ ở các vùng khác có nét tương đồng về trang phục với phụ nữ Thái đen: váy dài đen, khăn Piêu, chỉ có chiếc áo là vẫn giữ theo kiểu truyền thống của người Khơ Mú.

Về ẩm thực: Ngoài lương thực được trồng trên nương, dưới ruộng thì các loại rau chủ yếu khai thác từ thiên nhiên. Ngoài các loại thịt gia xúc, gia cầm nuôi được thì họ cũng săn bắn các con thú trên rừng, côn trùng dưới ruộng, ao để làm thứ ăn. Họ chủ yếu ăn xôi đồ, các loại thức ăn được chế biến chủ yếu là đồ chín, đồ chín nộm lên, nướng, gỏi…sử dụng rất nhiều gia vị. Trước đây, chủ yếu uống nước lã, bây giờ họ cũng uống nước chè, nước đun sôi để nguội. Rượu cần được sử dụng quanh năm, đặc biệt trong các lễ nghi không thể thiếu được chum rượu cần để dâng lên tổ tiên. Cả phụ nữ và đàn ông đều có tục hút thuốc lá bằng tẩu gỗ, họ tự trồng cây thuốc, thu hoạch và sử dụng dần quanh năm, hiện nay chủ yếu chỉ còn những người già hút, trung niên và thanh niên ít hút. Những phụ nữ lớn tuổi vẫn ăn trầu.

Về các loại hình nghệ thuật: Người Khơ Mú biết chế tác và sử dụng rất nhiều loại nhạc cụ: đàn tre, trống, nhị, chiêng, đàn…Họ có điệu hát Tơm truyền thống với nhiều làn điệu: Tơm đón khách, Tơm giao duyên, Tơm mừng nhà mới, Tơm trong đám cưới…Họ cũng có nhiều điệu múa truyền thống, trong đó phải kể đến điệu Vêlr guông (lắc hông) với những động tác mềm dẻo nhưng dứt khoát, khỏe khoắn.

Về phong tục, tập quán: Người Khơ Mú vẫn gìn giữ các nghi lễ vòng đời: Sinh ra, đặt tên; cưới xin, tang ma, có nhiều nghi lễ quanh năm: Đầu năm có lễ cúng bản; sau Lễ cúng bản, các gia đình về làm Lễ cúng tổ tiên để xin gieo hạt; sau khi cúng xin tổ tiên, mỗi gia đình lại lên nương để cúng hồn mẹ lúa để cầu mong được mùa; cúng cầu mưa; đến tháng 8-9, các gia đình lại tổ chức nghi lễ mừng cơm mới để cám ơn ông bà đã cho mùa màng tươi tốt, con cháu hội tụ; cuối năm, nhà nhà lại tổ chức Tết Khơ Mú để tiễn năm cũ, đón năm mới.

Người Khơ Mú có nhiều nghi lễ quanh năm, đặc biệt là các nghi lễ về nông nghiệp:

Lễ cúng bản (xên cung): Vào khoảng tháng 4-5 dương lịch, khi chuẩn bị vào vụ gieo trồng trên nương. Người dân trong bản chỉ được tra hạt khi đã làm lễ cúng bản. Lễ cúng bản thường được chọn một ngày tốt, cũng là ngày truyền thống của bản để tổ chức lễ từ năm này sang năm khác. Tùy từng bản, từng dòng họ của người có công lập bản mà chọn ngày. Thường là cúng trước ngày đó, để ngày hôm sau chính là ngày kiêng của bản để dân bản nghỉ ngơi, vui chơi, không lao động, sản xuất.

Dân bản được uống rượu cần trong những ngày Lễ cúng bản

Dân bản sẽ bàn bạc và chuẩn bị các đồ lễ cúng và lương thực, thực phẩm để ăn một bữa cơm chung, toàn bộ phần này do dân đóng góp (hiện nay, thường bản có quỹ chung thì sẽ dùng quỹ của bản). Chia thành các nhóm để chuẩn bị lễ và gác không cho người ra, vào bản.

          Mỗi bản đều có rừng cúng để tổ chức lễ cúng bản. Sau khi cúng bản xong, các gia đình mới tổ chức các nghi lễ khác để chuẩn bị mùa vụ trong năm.

          Các nghi lễ nông nghiệp:

- Lễ chia lửa (palr gai mạ): Do các gia đình tự tổ chức, xin tổ tiên cho lửa để đốt nương, chuẩn bị làm mùa màng.

          - Lễ tra nương (Hrẹ hrệ): Sau khi đốt nương xong, mỗi gia đình lại chọn ngày lành để làm lễ tra nương. Trước ngày làm lễ, ông chủ nhà lên nương chọn sẵn một khoảng đất tốt ở giữa nương, rộng chừng 10m2 và che tre dài chứng 80cm quây lại - khoảnh đất đó sẽ gieo hạt lúa đầu tiên. Bà chủ ở nhà chuẩn bị các loại giống gieo trồng: lúa, gừng, xả, ớt... và cũng sắp sẵn những cây gậy chọc lỗ. Sau đó mọi người lên nương làm lễ cúng xin phép tổ tiên được tra hạt và nhờ tổ tiên giúp bảo vệ mùa màng. Sau lễ cúng, mọi người bắt đầu tra hạt.

          Đặc biệt, người Khơ Mú thường tổ chức các nghi lễ Tết trong năm, gồm Lễ Cơm mới và Lễ cầu may, cầu phúc. Hai nghi lễ đều là Tết của người Khơ Mú, Tết ăn mừng cơm mới và Tết tiễn năm cũ, đón năm mới, cầu phúc, cầu lộc cho mọi người trong gia đình.

Thứ nhất là Lễ mừng cơm mới (Mạ quai)

Người Khơ Mú theo lịch Thái, hàng năm, cứ đến tháng 8-9 dương lịch (tức tháng 10 lịch Thái) các gia đình lại chuẩn bị các điều kiện, chọn ngày đẹp để tổ chức Nghi lễ Mừng cơm mới.

- Ý nghĩa: Nghi lễ mừng cơm mới mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, là dịp để con cháu dâng lễ lên ông bà (người Khơ Mú chỉ thờ 1 đời), mời ông bà về ăn cơm mới và cảm ơn ông bà đã vất vả quanh năm để trông nương rẫy cho con cháu; để gom hồn tất cả các con cháu trong nhà về ăn cơm mới, cầu mong mọi thành viên trong gia đình đều khỏe mạnh, cầu mong cho ông bà tiếp tục phù hộ cho năm mới được mùa.

- Quy mô: Nghi lễ được diễn ra trong quy mô từng gia đình, có sự tham gia của họ hàng, bà con dân bản. Chỉ những gia đình nào có bàn thờ bố mẹ mới được tổ chức cơm mới (tức là bố mẹ đã mất). Vì vậy, đến ngày nay, con cháu thường tập trung về nhà bố mẹ để tham dự nghi lễ cúng ông bà, đoàn tụ gia đình. Nếu gia đình nào có nhiều con trai thì khi bố mẹ mất, tất cả những người con trai đều được tổ chức nghi lễ mừng cơm mới.

- Chủ lễ: Là ông chủ nhà.

- Chọn ngày: Họ chọn ngày đẹp (chỉ trừ những ngày mất của bố, mẹ), còn lại các ngày trong tháng đều được. Người Khơ Mú tính theo lịch riêng, giống lịch của người Thái, chênh lên 02 tháng so với dương lịch. Mỗi tháng có 30 ngày, thì lịch cứ lặp lại 10 ngày/lần theo hệ can, chi, nên mỗi tháng sẽ có đến 3 ngày cúng bố, 3 ngày cúng mẹ (ví dụ: Mẹ chết vào ngày Thân, bố chết vào ngày Dần, thì trong tháng đó có 03 ngày Thân và 03 ngày Dần được coi là ngày xấu, ngày kiêng, không được làm lễ). Thường những người dân trong bản tổ chức mỗi hôm vài gia đình cho đến hết số gia đình trong bản.

          - Công tác chuẩn bị: Lễ vật để mừng cơm mới khá đơn giản, chỉ bao gồm các loại hoa quả, rau, măng ở trên nương, dưới ruộng vào mùa này có gì thì sẽ lấy về, chế biến để dâng lên tổ tiên. Ngoài ra, nhà nào có điều kiện thì mổ lợn, gà, vịt, nhà nào không có điều kiện thì cũng phải có ít nhất 1 con gà, 1 con vịt để dâng lên tổ tiên, ông bà và để con cháu ăn mừng cơm mới. Mỗi gia đình thường chuẩn bị vài hũ rượu cần để dâng lên tổ tiên và uống trong ngày lễ. Một loại lễ vật không thể thiếu đó là những bó lúa mới và gạo cốm mới.

          - Diễn biến của nghi lễ:

          + Từ buổi chiều hôm trước, các con, cháu đã đi lên nương, ruộng để lấy các loại rau: rau cải, tầm bóp, lá đu đủ, các loại rau thơm; các loại quả: mướp, bầu, bí, chuối, dưa, hoa chuối, ổi, cà...nhốt gà, lợn, vịt để sáng hôm sau mổ. Tối đến chị em ngâm gạo nếp để đồ xôi, bà chủ nhà chuẩn bị bó lúa mới, gạo cốm mới để làm cơm cúng.

          + Khoảng 7h sáng hôm sau, ngày chính lễ, các thanh niên nam mổ lợn, gà, vịt. Gà, vịt được mổ luộc lên, lòng được dùng để xào măng chua. Thịt lợn phần được thái miếng, tẩm gia vị xiên vào que tre, nướng lên; phần được luộc, xương được xào lên, còn lại đem hầm để nấu canh.

Những người phụ nữ đồ xôi, dỡ ra quạt nguội rồi gói vào lá dong; đồ rau làm nộm; bổ, gọt các loại quả: bí, Mướp, cà, dưa...đồ lên cho chín, măng luộc chín.

Bà chủ nhà đồ riêng xôi cốm, chuẩn bị một ít đồ lễ để cúng tổ tiên.

          + Ngoài chủ nhà, con, cháu trong gia đình, mời thêm họ hàng, anh em, bà con trong bản đến để chung vui, mọi người thường đến từ sáng, uống nước, nói chuyện cùng với gia chủ, vui vẻ, rôm rả.

          * Các nghi lễ chính:

          - Lễ mời công cụ sản xuất ăn cơm mới: Công cụ sản xuất rất quan trọng đối với các gia đình nhà nông, đối với người Khơ Mú cũng vậy, chúng được coi như những thành viên của mỗi gia đình, lễ này để tỏ lòng biết ơn các nông cụ đã vất vả quanh năm giúp cho nhà nông làm mùa màng. Trong thời gian mọi người chuẩn bị đồ lễ, cơm xôi thì ông chủ làm lễ mời các dụng cụ sản xuất ăn cơm mới. Ông đặt 2 cái mẹt, 1 cái đựng một ít cám gạo rải đều trên mẹt, sau đó đặt dùng cụ lên trên cám gồm: dao liềm, cuốc...khoảng 5-6 dụng cụ tượng trưng. Mẹt bên cạnh đặt một bó lúa nhỏ chín, lúa mới được hái về. Ông chủ khấn mời linh hồn của các dụng cụ ăn cơm mới, cảm ơn chúng đã cùng gia đình đồng hành trong suốt mùa vụ, vất vả quanh năm bây giờ ăn mừng cơm mới để chuẩn bị cho mùa vụ sau được tốt hơn.

          - Ăn cơm mới: Đến khoảng 11h thì các món ăn, đồ lễ đã chuẩn bị xong. Mọi người đặt mâm, dọn các món ăn lên, mỗi mâm đều đầy đủ các món ăn đã chế biến. Dọn một mâm đầy đủ nhất để ông chủ nhà mời những người thân nội, ngoại, bề trên của gia chủ. Bà chủ chuẩn bị sẵn đồ lễ để cúng tổ tiên gồm: một bát các loại hoa quả luộc, một đĩa măng, rau nộm. Ông chủ nhà mời mọi người vào mâm, những người quan trọng ngồi vào mâm chính giữa nhà, rồi thực hiện nghi lễ mời ma đói, ma khát.

- Lễ mời ma đói, ma khát: Khi mọi người đã ngồi vào mâm, ông chủ nhà đem từ bếp lên một phên tre nhỏ (bằng chiếc vỉ ruồi) trên đó đặt một ít rau nộm, 2 chiếc mỏ hàm con vịt, 1 vỏ quả chuối chín, 1 lá thuốc lào, đó là đồ lễ cúng ma đói, ma khát (đồ lễ này đơn giản vì người Khơ Mú quan niệm, chỉ mang tính chất tượng trưng, sau khi mời xong sẽ mang đi vứt, nếu để đồ ngon sẽ lãng phí). Ông chủ nhà đặt lên mâm chính, trước mặt mọi người trong mâm, ông cúng khấn mời ma đói, ma khát ăn đồ lễ, rồi đốt lá thuốc là mời ma hút thuốc. Cúng xong, ông cầm mâm lễ đó đi xuống bếp, vào chỗ để ninh đồ xôi mời ma đói, ma khát trú ngụ ở bếp ăn đồ lễ, mời hồn của bếp trú ngụ ở chiếc ninh đồ xôi chứng giám. Sau đó ông chủ nhà ra khỏi nhà vứt hết đồ lễ đó đi (thường là vứt ra ngã ba đường, không vào nhà ai) ngụ ý là tống tiễn ma đói, ma khát, đem điều không may, rủi ro đi khỏi. Thực hiện xong nghi lễ, ông chủ quay vào mâm bắt đầu mời mọi người ăn cơm mới.

          Trước khi ăn cơm mới, tại mâm chính, một người thân thuộc bề trên đại diện nói lời: Cám ơn tổ tiên, ông bà đã bảo vệ nương rẫy cho con cháu một mùa màng bội thu, cảm ơn chủ nhà đã mời cơm, chúc cho gia chủ năm mới khỏe mạnh, làm ăn may mắn, mùa màng tươi tốt, bội thu, cầu mong tổ tiên, ông bà phù hộ, độ trì cho con cháu, gia chủ có một năm mới khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt. Sau khi ông đại diện phát biểu xong, mọi người trong mâm kể cả ông chủ nhà đều nói lời cảm ơn ông bà, cha mẹ, gia chủ đã bảo vệ mùa màng, cho con cháu được khỏe mạnh, cầu mong một năm mới mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Các ông đáp lễ xong, mọi người rót rượu và nâng chén bắt đầu vào bữa cơm. Ăn được khoảng 2/3 bữa cơm thì gia chủ mở 1 chum rượu cần, mời mọi người uống.

          - Lễ gom hồn con cháu, mời ông bà về ăn cơm mới: Người Khơ Mú không cúng tổ tiên, ông bà trước mà tổ chức ăn cơm mới trước, đến khoảng 2h chiều, thì thực hiện nghi lễ gom hồn con cháu, mời về ăn cơm mới, mời tổ tiên ăn cơm mới. Người nhà đặt một mâm lễ gồm các đồ lễ đã được bà chủ nhà chuẩn bị sẵn. Mâm lễ là một chiếc mâm gỗ vuông, nhỏ (kích thước  khoảng 40cm x 40cm, được treo ở gian thờ, chỉ khi làm lễ cúng mới bỏ xuống), đặt 1 bát các loại quả đồ chín, một đĩa măng luộc lẫn với rau nộm, 1 bát muối ớt, đặt 4 thìa, 4 đôi đũa ở 4 góc mâm, 1 ép xôi cốm mới. Mâm lễ được đặt ở chính giữa của gian đầu tiên, gần bàn thờ tổ tiên.

Ông bà chủ nhà tập chung tất cả con, cháu lại, từ đứa còn ẵm ngửa đến người trưởng thành, ngồi xung quanh mâm lễ. Ông chủ nhà bắt đầu làm lễ, ông mặc trang phục bình thường nhưng phải vắt lên vai một chiếc khăn mặt để tỏ lòng kính trọng đối với tổ tiên. Ông mở ép xôi cốm, vê xôi thành từng miếng nhỏ bằng đầu ngón tay, chấm chấm vào các đồ lễ, rồi dính lên tóc của con, cháu, theo thứ tự từ người bé nhất đến người lớn nhất đều được dính mỗi người 2 miếng xôi (người nào đội khăn thì có thể dính lên trán), vừa dính, ông chủ vừa cúng khấn mời hết các loại hồn của con cháu về ăn cơm mới, không được sót hồn nào, vừa khấn cầu mang cho con cháu khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật, không rủi ro, tai nạn.

Khấn mời hết hồn con, cháu xong, ông chủ dính xôi gọi hồn cho vợ, mời hồn của vợ về ăn cơm mới, cầu mong cho vợ khỏe mạnh.

Sau đó, các con cháu giải tán, bà vợ lại khấn, dính xôi và gọi hồn chồng về ăn cơm mới, cầu mong cho chồng khỏe mạnh. Sau đó hai vợ chồng làm lễ mời ông bà về ăn cơm mới.

- Lễ mời bố mẹ về ăn cơm mới: Ông bà chủ vẫn ngồi bên mâm lễ, ông chủ nhà tiếp tục vê xôi chấm vào các đồ lễ rồi dính xuống mặt mâm, mời tổ tiên, ông bà về ăn cơm mới, phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, ông chủ chỉ mời khoảng 4 lần, vê 4 miếng xôi là xong lễ này. Cúng xong, ông chủ nhà ăn vài miếng xôi cốm mới, nắm mời bà chủ nhà một nắm, rồi nắm mời mọi người ăn cơm mới, tất cả mọi người tham dự đều được chia mỗi người một nắm nhỏ, ai cũng được mời để cùng hưởng lộc, cùng hưởng may mắn với gia chủ, sau đó người nhà dọn mâm lễ đi.

          - Lễ mời bố mẹ uống rượu cần: Người nhà lấy một thanh gỗ (thường ngày được gác trên xà nhà ở gian cúng, khi nào làm lễ mừng cơm mới, tết mới lấy xuống), có tiết diện khoảng 3x7cm, dài từ sàn nhà lên tận xà nhà, ở sàn nhà đã đục sẵn một cái ngàm để cài chân thanh gỗ xuống mặt sàn cho cho chắc, trên xà nhà cũng đính sẵn một miếng gỗ ngàm để lồng ngọn thanh gỗ, thanh gỗ được đặt chính giữa của xà ngang gian thứ nhất (gần gian thờ), từ mặt sàn lên khoảng 50 cm có gắn trên thanh gỗ một thanh ngang khoảng 40cm (thanh gỗ này mang ý nghĩa nối âm dương). Người nhà bê vào một chum rượu cần, mở nắp, đổ nước vào, dùng lạt buộc miệng chum vào thanh gỗ cho chắc, cắm vào chum rượu 2 chiếc cần chúc. Người ta buộc vào thanh gỗ một bó nhỏ bông lúa chín vừa được ngắt về, cách miệng chum rượu cần khoảng 20 cm, mang đến một chậu nước, có sẵn sừng trâu để tiếp nước, đặt cạnh chum rượu. Ông, bà chủ nhà ngồi cạnh chum rượu cần, bà chủ nhà cầm sừng trâu để tiếp nước vào rượu,ôn chủ mở hòm lấy ra một đôi đũa tre (giống đôi đũa cả, dài khoảng 20cm), một tay ông vít 02 cần rượu, 1 tay ông dùng đũa cả gắp bã rượu từ trong chum ra, bón qua một cái lỗ sàn nhà (đã được đục sẵn từ trước), ngụ ý mời bố mẹ về uống rượu cần, vừa bón ông vừa khấn mời bố mẹ uống rượu cần, vui lễ cơm mới với con cháu, cảm ơn bố mẹ đã trông nương ruộng, để cho con cháu được mùa, cầu mong bố mẹ tiếp tục phù hộ cho con cháu sang năm được mùa...Lễ này chỉ diễn ra khoảng 5 phút.

Ông chủ cúng xong, cất đôi đũa đi, mời 2 ông bề trên đại diện bên nội và bên ngoại uống rượu cần, mừng lễ cơm mới. Hai ông vít 2 cần rượu, nói lời cảm ơn và cầu mong cho các con cháu trong gia đình khỏe mạnh, năm mới được mùa...ông chủ nhà cũng đáp lời cảm ơn, sau đó 2 người uống khoảng 1 trâu (2 sừng), ông chủ nhà mời tiếp 2 người có vai vế trong bản: Trưởng bản, bí thư: hai người cũng vít cần rượu rồi nói lời cảm ơn, 2 người uống 1 trâu rượu cần. Nghi lễ cúng cơm mới đến đây kết thúc.

          Sau đó, ông chủ nhà mời mọi người tiếp tục ăn cơm, uống rượu cần, uống rượu chai cho đến tận chiều, sau đó mọi người múa xòe. Khi chiêng trống nổi lên, mọi người cùng nắm tay nhau múa xòe vòng, múa tăng bu, vêlr guông…rộn ràng, sôi nổi cho đến chiều. Trong khi đó, thì mọi người trong bản có thể đến nhà nhau giao lưu, giống như đi chúc tết, cứ như vậy cho đến hết ngày.

          Nghi lễ mừng cơm mới của người Khơ Mú được tổ chức để nhắc nhở con cháu nhớ về tổ tiên, ông bà, cảm ơn người đã khuất, cầu mong con cháu khỏe mạnh, là dịp con cháu đoàn tụ, vui vẻ, cầu mong một mùa vụ bội thu. Là một nghi lễ đơn giản nhưng mang tín ngưỡng tâm linh sâu sắc, tính đoàn kết cộng đồng, gia đình, dòng họ, là nghi lễ quan trọng đối với người Khơ Mú.

          Thứ hai là Lễ cầu may, cầu phúc (Mạ grợ)

Hàng năm, sau khi gặt hái mùa màng xong, khoảng tháng 11-12 âm lịch các gia đình lại chuẩn bị các điều kiện, chọn ngày đẹp để tổ chức Lễ cầu may, cầu phúc.

- Ý nghĩa: Nghi lễ cầu may, cầu phúc thực chất là Tết lớn nhất trong năm của người Khơ Mú, mang ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, là dịp để con cháu dâng lễ lên tổ tiên, mời tổ tiên về ăn tết với con cháu; làm lễ cho các thành viên trong gia đình, cầu mong các thành viên trong gia đình đều khỏe mạnh; tiễn năm cũ đi cùng tất cả những sui sẻo, ốm đau, bệnh tật, mong được đón năm mới với nhiều điều may mắn, sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt, gia đình hòa thuận, ấm no.

- Quy mô: Nghi lễ được diễn ra trong quy mô từng gia đình, có sự tham gia của họ hàng, bà con dân bản. Chỉ những gia đình nào có bàn thờ bố mẹ mới được tổ chức Lễ cầu phúc, cầu lộc (tức là bố mẹ đã mất). Vì vậy, đến ngày nay, con cháu thường tập trung về nhà bố mẹ để tham dự nghi lễ cúng ông bà, đoàn tụ gia đình. Nếu gia đình nào có nhiều con trai thì khi bố mẹ mất, tất cả những người con trai đều được tổ chức nghi lễ cầu phúc, cầu may.

- Chủ lễ: Là ông chủ nhà, nếu ông chủ nhà mất (còn vợ) thì con trai cả sẽ thay mặt bố để tổ chức nghi lễ.

- Chọn ngày: Họ chọn ngày đẹp (chỉ trừ những ngày mất của bố, mẹ), còn lại các ngày trong tháng đều được. Người Khơ Mú tính theo lịch riêng, giống lịch của người Thái, chênh lên 02 tháng so với dương lịch. Mỗi tháng có 30 ngày, thì lịch cứ lặp lại 10 ngày/lần theo hệ can, chi, nên mỗi tháng sẽ có đến 3 ngày cúng bố, 3 ngày cúng mẹ (ví dụ: Mẹ chết vào ngày Thân, bố chết vào ngày Dần, thì trong tháng đó có 03 ngày Thân và 03 ngày Dần được coi là ngày xấu, ngày kiêng, không được làm lễ). Thường những người dân trong bản tổ chức mỗi hôm vài gia đình cho đến hết số gia đình trong bản, trong thời gian từ tháng 11-12 âm lịch.

          - Công tác chuẩn bị: Lễ vật để tổ chức Lễ cầu phúc, cầu lộc đơn giản, chỉ bao gồm các loại củ, quả: Các loại khoai: Khoai lang, Sọ, củ mài; các loại bí: đỏ, xanh, bầu được chị em lấy về, đồ chín để dâng lên tổ tiên. Ngoài ra, nhà nào cũng phải có 1 đôi gà (1 con trống, 1 con mái), dòng họ Quàng (là dòng họ thờ con hổ) thì phải mổ lợn để làm lễ; các gia đình mổ thêm lợn, gà, vịt, mua thêm thực phẩm để tổ chức ăn tết. Mỗi gia đình phải chuẩn bị vài hũ rượu cần để dâng lên tổ tiên và uống trong ngày lễ.

          - Diễn biến của nghi lễ:

          + Từ buổi những hôm trước đó, chủ nhà đã chuẩn bị sẵn vài chum rượu cần; thu hoạch các loại củ, quả để về làm lễ, nhốt gà, lợn, vịt để hôm sau làm lễ.

          + Khoảng 3h chiều ngày chính lễ. Ông chủ nhà sẽ chủ trì tổ chức nghi lễ:

          - Lễ mời tổ tiên ăn tết:

+ Người nhà lấy một thanh gỗ (thường ngày được gác trên xà nhà ở gian cúng, khi nào làm lễ mừng cơm mới, tết mới lấy xuống), có tiết diện khoảng 3x7cm, dài từ sàn nhà lên tận xà nhà, ở sàn nhà đã đục sẵn một cái ngàm để cài chân thanh gỗ xuống mặt sàn cho cho chắc, trên xà nhà cũng đính sẵn một miếng gỗ ngàm để lồng ngọn thanh gỗ, thanh gỗ được đặt chính giữa của xà ngang gian thứ nhất (gần gian thờ), từ mặt sàn lên khoảng 50 cm có gắn trên thanh gỗ một thanh ngang khoảng 40cm (thanh gỗ này mang ý nghĩa nối âm dương). Người nhà bê vào một chum rượu cần, mở nắp, đổ nước vào, dùng lạt buộc miệng chum vào thanh gỗ cho chắc, cắm vào chum rượu 4 chiếc cần trúc. Người ta mang đến một chậu nước, có sẵn sừng trâu để tiếp nước, đặt cạnh chum rượu.

+ Lúc này, người nhà cũng đặt giữa nhà một mâm củ, quả đã được đồ chín. Mọi người trong gia đình, con cháu, họ hàng đến dự ngồi xung quanh nhà.

+ Mọi người trong gia đình đều tập trung tại gian thờ tổ tiên, gần chum rượu cần. Người con trai cả bắt vào 1 con gà trống, lấy 1 con dao nhọn đưa vào cho ông chủ nhà. Ông chủ nhà rửa con dao, rửa mỏ con gà rồi dùng dao cứa mép con gà cho chảy máu ra. Ông chủ nhà một tay cầm hai cánh gà, một tay cầm đầu gà vừa khấn, vừa bôi máu con gà lên chân những người trong gia đình, bôi quệt từ đầu gối xuống đến cổ chân, lần lượt từ người nhỏ tuổi nhất đến người lớn tuổi nhất, cuối cùng bà chủ nhà sẽ bôi cho ông chủ. Sau khi bôi xong tiết con gà trống, người con trai cả đem con gà trống ra ngoài, bắt tiếp con gà mái và cũng thực hiện các nghi lễ như vậy. Trong lúc bôi tiết gà, ông chủ khấn cho mọi người trong gia đình khỏe mạnh, may mắn, mong cho tổ tiên phù hộ…những người tham dự lễ cũng đồng thanh khấn theo ông chủ, chúc phúc, cầu may, cầu sức khỏe cho mọi người trong nhà. 2 con gà được mang đi mổ để làm lễ.

          + Sau đó, ông, bà chủ nhà ngồi cạnh chum rượu cần, bà chủ nhà cầm sừng trâu để tiếp nước vào rượu, ông chủ lấy ra một đôi đũa tre (giống đôi đũa cả, dài khoảng 20cm), một tay ông vít 02 cần rượu, 1 tay ông dùng đũa cả gắp bã rượu từ trong chum ra, bón qua một cái lỗ sàn nhà (đã được đục sẵn từ trước), ngụ ý mời bố mẹ về ăn tết, uống rượu cần, vừa bón ông vừa khấn mời bố mẹ uống rượu cần, ăn tết với con cháu, cầu mong bố mẹ phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, gia đình hòa thuận, làm ăn phát đạt. Khi ông chủ cất lời cúng thì những người già, người lớn cũng cúng khấn theo để cầu mong cho tổ tiên phù hộ cho gia chủ.

+ Thực hiện nghi lễ xong, mọi người cùng nhau uống rượu cần và củ, quả đồ. Đầu tiên ông chủ mời những người lớn tuổi, có chức sắc trong bản, sau đó đến những người khác. Những người được mời uống rượu đều vừa vít cần rượu, nói lời cảm ơn chủ nhà và cầu mong cho các con cháu trong gia đình khỏe mạnh, năm mới nhiều may mắn, khi đó mọi người ngồi xung quanh cũng khấn theo.. ông chủ nhà cũng đáp lời cảm ơn, rồi cùng uống rượu cần.

- Lễ cầu hồn, vía cho mọi người trong nhà:

- Nghi lễ được thực hiện tại gian thờ nơi mời tổ tiên ăn Tết. Mâm lễ gồm các đồ lễ đã được bà chủ nhà chuẩn bị sẵn. Mâm lễ là một chiếc mâm gỗ vuông, nhỏ (kích thước  khoảng 40cm x 40cm, được treo ở gian thờ, chỉ khi làm lễ cúng mới bỏ xuống) hoặc một phên tre, đặt 1 bát các loại củ, quả đồ chín, 2 con gà được luộc chín, chặt ra để lên mâm, một bát canh rau (hoặc bát nước luộc gà), 1 bát muối ớt, đặt 4 thìa, 4 đôi đũa ở 4 góc mâm, 1 ép xôi to. Mâm lễ được đặt cạnh chum rượu cần.

- Ông bà chủ nhà tập chung tất cả con, cháu lại, từ đứa còn ẵm ngửa đến người trưởng thành, ngồi xung quanh mâm lễ. Ông chủ nhà bắt đầu làm lễ, ông mặc trang phục bình thường nhưng phải vắt lên vai một chiếc khăn mặt để tỏ lòng kính trọng đối với tổ tiên. Ông mở ép xôi cốm, vê xôi thành từng miếng nhỏ bằng đầu ngón tay, chấm chấm vào các đồ lễ, rồi dính lên tóc của con, cháu, theo thứ tự từ người bé nhất đến người lớn nhất đều được dính mỗi người 2 miếng xôi (người nào đội khăn thì có thể dính lên trán), người nào có gia đình rồi mà con cái đi vắng không về dự được thì dính thêm 1 miếng xôi lên tóc của bô, mẹ, vừa dính xôi, ông chủ vừa cúng khấn cầu mong cho con cháu khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật, không rủi ro, tai nạn, tiễn năm cũ, đón năm mới. Cuối cùng bà chủ nhà sẽ vê xôi dính lên tóc ông chủ nhà và cầu khấn cho ông khỏe mạnh, may mắn, nhiều phúc, nhiều lộc. Trong khi ông, bà chủ nhà cúng khấn thì mọi người tham gia cũng đồng thanh cúng khấn theo xin thần linh, tổ tiên phù hộ cho gia chủ khỏe mạnh, may mắn.

- Cúng xong cho mọi người trong gia đình, ông chủ thực hiện nghi lễ mời tổ tiên ăn tết. Ông cũng vê từng miếng xôi nhỏ chấm vào các bát thức ăn rồi dính vào mặt mâm, vừa dính xôi, ông vừa khấn mời tổ tiên ăn tết, cầu khấn tổ tiên phù hộ cho mọi người trong gia đình khỏe mạnh, mùa màng tươi tốt, gia xúc, gia cầm sinh sôi.

- Sau đó, ông chủ nhà nắm xôi và chia thịt gà cho những đưa trẻ trong gia đình hưởng lộc.

- Phần hội:

          Trong khi chủ nhà thực hiện các nghi lễ, người nhà chuẩn bị thức ăn, xôi, củ quả để tổ chức ăn tết. Tùy vào số lượng người trong gia đình, người tham dự nhiều hay ít để dọn mâm, thường mỗi gia đình dọn từ  3-5 mâm cỗ.

          Thực hiện nghi lễ xong, mọi người ăn cơm, vừa ăn cơm, vừa uống rượu cần và múa xòe. Trong lúc múa xòe thì có người dùng củ, quả đã đồ sẵn bôi lên những người tham gia, ai cũng phải bôi một ít để lấy lộc, lấy phúc của chủ nhà. Cuộc vui này có thể đến khuya, càng về khuya, cuộc vui càng rộn ràng, mọi người càng bôi quả, củ vào nhau nhiều hơn. Đây cũng là một nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Khơ Mú.

          Nghi lễ cầu may, cầu phúc của người Khơ Mú được tổ chức để tiễn năm cũ, tiễn những rủi ro, ốm đau của năm cũ, đón năm mới với mong muốn con người khỏe mạnh, không ốm đau, bệnh tật, làm ăn phát đạt. Là dịp mọi người trong gia đình đoàn tụ, nhớ về tổ tiên. Là nghi lễ truyền thống mang yếu tố tín ngưỡng tâm linh sâu sắc của người Khơ Mú, thể hiện tính cộng đồng, đoàn kết của những người trong gia đình, dòng họ, làng bản.

Người Khơ Mú ở Sơn La là một dân tộc bảo tồn được nhiều nét văn hóa truyền thống, trong đó có các nghi lễ nông nghiệp và nhiều nghi lễ trong năm. Lễ Mừng cơm mới và Lễ cầu may, cầu phúc đều mang yếu tố tâm linh, tín ngưỡng sâu sắc, đậm bản sắc của dân tộc. Nghi lễ là dịp để con cháu trong gia đình đoàn tụ, cùng nhớ công ơn của tổ tiên, cha mẹ, cùng thực hiện nghi lễ cầu mong cho mọi thành viên trong gia đình đều khỏe mạnh, xua đi những rủi ro, bệnh tật, đón năm mới vui vẻ, làm ăn phát đạt, gia đình hòa thuận, ấm no. Là các nghi lễ được tổ chức mang tính chất gia đình nhưng thể hiện sự quan tâm của họ hàng, thông gia, lãnh đạo bản, thể hiện tính chất cộng đồng của người Khơ Mú.

Hiện nay, nghi lễ này đang được bảo tồn rất tốt, không có nguy cơ bị mai một./.

Tin ảnh: Thanh Tra 

Thông tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập

 BAN DÂN TỘC TỈNH SƠN LA 

Địa chỉ: Tầng 5 tòa nhà 6T1, Trung tâm hành chính tỉnh, Tổ 7, Phường Tô Hiệu, Thành phố Sơn La. 

Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Ông Nguyễn Văn Thu - Trưởng Ban

Điện thoại: 0212.3850744 - Email: bdt@sonla.gov.vn 

Giấy phép số: 22/GP-BTTTT do Sở Thông tin - Truyền thông
Cấp ngày 22  tháng 3 năm 2024.

 

 Chung nhan Tin Nhiem Mang